Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Suy Niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay- Năm A

Suy Niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay- Năm A
Ga 9,1-41
Suy niệm
Để công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện
Đứng trước người mù từ lúc mới sinh, các môn liền hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Thái độ đầu tiên của các môn đệ là tìm hiểu nguyên nhân làm cho anh thanh niên mù lòa. Chúa Giêsu thì khác, Người không đối diện với vấn đề bằng cách “nhìn lại đằng sau” như các môn đệ, nhưng người “nhìn tới trước” để thấy ý nghĩa của sự việc, và rồi người chữa lành tận căn cho anh. Hôm nay, đứng trước những người mù lòa, tật nguyền, người Kitô hữu sẽ có thái độ như thế nào, như các môn đệ hay như Chúa Giêsu? Người Kitô có đọc ra được ý muốn của Thiên Chúa và sau đó “chữa trị” họ hay chỉ đặt câu hỏi tại sao?
Đem lại ánh sáng là sứ mạng của Chúa Giêsu
Chúng ta có lẽ thừa nhận sự thật rằng, trong khi chúng ta đang sống, chúng ta cũng đang chết. Đây là lý do tại sao chúng ta bận tâm nhiều về sức khỏe thể lý. Khi chúng ta gặp rối loạn về thể lý, chúng ta nhanh chóng tìm ai đó để giúp mình. Nhìn chung, chúng ta sẽ nhờ đến các phương thế tự nhiên hay y khoa để chữa trị cơn đau về thể lý, nhưng nhờ Lời Chúa, chúng ta biết có một cách chữa trị khác bằng phương thế thần linh. Một kiểu chữa trị mà Thiên Chúa bị lôi kéo hoàn toàn và trực tiếp vào đó. Đây là kiểu chữa trị mà Chúa Giêsu đã làm.
Ước muốn chữa lành bệnh cho anh mù của Chúa Giêsu không xuất phát từ lời cầu xin của anh hay của ai khác, nhưng chính Người tự ý bước tới và chữa lành cho anh. Chúa Giêsu đã mở đôi mắt thể lý để anh thấy ánh sáng mặt trời, và Người tiếp tục mở đôi mắt của con tim để anh thấy “Ánh sáng cho trần gian”. Đó là sứ mạng “làm ánh sáng” của Chúa Giêsu trong thế gian này. Thật vậy, Người không chỉ hiện diện trên trái đất này, nhưng còn muốn bước tới con người, chữa lành và dẫn họ bước tới để họ càng ngày càng nhận thấy diện mạo đích thực của Người. Chúa Giêsu không những muốn mắt người mù được sáng để nhìn thấy mặt trời, mặt trăng, vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người, còn hơn thế nữa, Người muốn con mắt của con tim, của đức tin của anh cũng được sáng để nhìn thấy Thiên Chúa và những điều kỳ diệu do bàn tay của Người.
Để Thiên Chúa được tỏ lộ
Sự chữa lành người mù của Chúa Giêsu chứng thực cho sự thật của lời rao giảng và những tuyên bố về quyền bính thần linh của Người. Đánh tan quan niệm sai lạc của người Do thái, Chúa Giêsu mời gọi những người thời Người nhìn nhận điều kiện của người mù như là cơ hội cho Thiên Chúa tỏ bày tỏ sức mạnh chữa lành. Thậy vậy, Thiên Chúa làm phép lạ để thỏa mãn nhu cầu của con người, bên cạnh đó Người cũng dùng phép lạ như một phương tiện để chứng thực cho những lời Người đã nói, như bằng chứng rằng Người đích thực là Đấng Kitô ( x. Ga 20,30-31).
Đứng trước những người khuyết tật bẩm sinh, nhiều người ngạc nhiên hay động lòng về sự thiếu may mắn của họ. Có thể họ sẽ đặt câu hỏi rằng nếu Chúa thật sự là Thiên Chúa Tình Yêu, vậy tại sao Người lại có thể để cho một sự dữ xảy ra như thế?. Nhưng cũng có những người tin rằng Chúa không bao giờ để xảy ra điều gì trong cuộc đời mà lại không có mục đích tốt của nó.
Nick Vujicic, một Kitô hữu, từ khi lọt lòng mẹ đã mang một khuyết tật: không tay không chân. Sự có mặt của anh trong cuộc đời này lúc đầu được xem như là sự bất hạnh cho gia đình và cả chính anh nữa. Thiên Chúa không lấy hết điều gì của ai, cũng không ban tất cả cho một ai. Điều này đúng cho trường hợp của Nick Vujicic. Mặc dù thiếu tứ chi, nhưng anh có một niềm tin, ý chí phi thường. Anh có thể làm được nhiều điều mà người khác có đầy đủ tay chân không làm được. Đối diện với nỗi bất hạnh của mình, anh không đặt câu hỏi tại sao với Thiên Chúa, nhưng nhận ra được ý định của Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, và anh đi khắp nơi để tuyên xưng về tình thương của Thiên Chúa đã dành cho anh. Ngoài Nick Vujicic ra, xung quanh chúng ta còn có vô số người tật nguyền như vậy.
Tóm lại, ánh sáng và bóng tôi, khả năng nhìn thấy và sự mù lòa là những hình ảnh tương phản nhau trong bài Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu không những chữa lành sự mù lòa của đôi mắt thể xác, nhưng hơn thế, Người muốn chữa lành sự mù lòa tinh thần của chúng ta. Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian và người ban cho những ai theo Người cũng có ánh sáng đem lại sự sống. Vì thế, tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, mỗi Kitô hữu sẵn sàng giúp cho người khác nhận ra bàn tay quang phòng của Thiên Chúa hiện diện trong mỗi biến cố của cuộc sống. Đứng trước những đau khổ trong cuộc đời, thay vì đặt câu hỏi tại sao, với niềm tin vốn có, chúng ta hãy giúp người khác đọc ra được ý nghĩa, mục đích của biến cố đó.

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2014

Suy Niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay- Năm A

Suy Niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay- Năm A
Ga 4,5-42
Suy niệm

Chúa Giêsu khát - chúng ta khát
Khát! Có cơn khát do nhu cầu thể lý và cũng có cơn khát do nhu cầu tinh thần. Thường người ta khát cả hai. Cơn khát do thể lý hằng ngày có thể được thỏa mãn nhanh chóng bằng nước được ban cách nhưng không, tuy nhiên vẫn có rất nhiều người chết vì thiếu nước. Bên cạnh đó còn có những cơn khát sâu xa hơn, nó xuất phát từ đòi hỏi của tâm hồn. Cơn khát này nó cũng có sức hủy hoại con người không kém cơn khát kia. Thật vậy, con người mọi thời luôn đối diện với cơn khát này: khát tâm linh, khát Thiên Chúa. Thánh Gioan mô tả một cuộc đối thoại đi từ cơn khát tự nhiên đến cơn khát Thiên Chúa, từ nước tự nhiên đến kinh nghiệm về Thiên Chúa. Người phụ nữ Samary trong bài Tin mừng hôm nay sẽ nói cho chúng ta biết kinh nghiệm của cô về Thiên Chúa và sẽ dẫn đưa chúng ta đến gặp Thiên Chúa.
“Chị cho tôi xin chút nước uống!”
Câu chuyện gặp gỡ của Chúa Giêsu với người phụ nữ ở giếng nước khởi đầu từ một yêu cầu đơn giản: “chị cho tôi xin chút nước uống!” Đó là vào lúc giữa trưa. Chúa Giêsu đang khát. Người đến giếng nước gần Samari và dừng lại nghỉ ngơi. Người phụ nữ trong làng đến giếng lấy nước. Cô đi ra khỏi làng vào lúc giữa trưa để lấy nước uống. Lúc này, điều lịch sự cần làm là phải phớt lờ người khác. Bởi vì người Do thái và người Samary không được phép giao thiệp với nhau, và người đàn ông không được phép nói chuyện với người phụ nữ nơi công cộng.
Chúa Giêsu trò chuyện với người phụ nữ cách công khai. Về mặt xã hội, điều này không thể chấp nhận được, và người phụ nữ Samary đã nhắc nhở Chúa Giêsu điều này. Nhưng Chúa Giêsu vượt ra khỏi rào cản của thành kiến giới tính, chủng tộc và tôn giáo, bất chấp rào cản của sự xấu và tội lỗi để đem tin vui của sự bình an cho cô, cho người Samary và cả dân ngoại. Chúa Giêsu và các muôn đệ đang khát khô cổ họng sau nửa ngày đường nắng nóng, nhưng Chúa Giêsu đã quyên đi cái khát đó. Cơn khát thực sự của Người bây giờ là cơn khát trao ban niềm tin và ơn cứu độ cho người phụ nữ. Thật vậy, Người có khẳ năng và sẵn sàng giải đáp cơn khát sâu xa của con người, mà cơn khát thể lý chỉ là dấu chỉ khởi đầu, miễn là con người trải lòng ra với Người như người phục nữ Samary đã trải lòng ra với Người.
 “Xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát”
Như Chúa Giêsu, người phụ nữ cũng đang khát. Đó là lý do tại sao cô đến giếng lấy nước. Thực sự, cơn khát của cô vượt ra ngoài cái khát cổ họng. Tâm hồn cô cần một chút bình yên từ sự náo động và hỗn độn trong những mối quan hệ tình cảm và xã hội của mình. Cô cần sự tha thứ và sự giải thoát khỏi những điều xấu hổ mà cô đang gặp. Cô cần tình yêu mà cô tìm kiếm khá liều lĩnh nhưng không tìm thấy sau lần chung sống với người đàn ông thứ năm. Cô cần ai đó để có thể tin cậy và tin tưởng. Cô cần một Đấng Cứu độ!
Nước hằng sống có nghĩa thông thường là nước chảy ra từ một con suối chứ không phải là nước từ giếng, hồ, chum nước tù đọng. Loại nước mà Chúa Giêsu nói đến là nước sự sống, dòng nước chảy, tươi mát và tinh khiết. Nước đó có khẳ năng lăn lỏi vào nơi sâu thẳm của tâm hồn con người. Nước hằng sống đó xuất phát từ đầu nguồn Thiên Chúa và được Đức Giêsu múc lấy cho chúng ta hằng ngày qua Lời của Người và chính con người của Người.
Thật vậy, cuộc đối thoại của Chúa Giêsu tiến triển từ lời xin nước uống cho đến cuộc bàn luận về nước hằng sống. Sự nhận biết của người phụ nữ về Chúa Giêsu tăng dần. Đối với cô, Chúa Giêsu lúc đầu chỉ là một người Do thái lạ mặt, sau đó là một ngôn sứ, rồi cuối cùng là Mêsia và Đấng Cứu Độ. Cuộc gặp gỡ với sự tương tác lạ thường như thế khiến người phụ nữ quên đi cơn khát thể lý, vì thế cô cầu xin Chúa Giêsu: “cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát”. Cơn khát của người phụ nữ được thoả mãn khi cô bắt đầu ý thức được đâu là những gì vĩnh cửu và đâu là những cái chóng qua. Điều này làm cho cô vui mừng đến độ cô để cái vò lại bên bờ giếng nước, trở về và kêu lên: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?(Ga 4,29).

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, có thể có hai giai đoạn: tin bởi vì ai đó đã nói cho chúng ta biết về Chúa Giêsu, và tin bởi vì chúng ta biết Chúa Giêsu qua kinh nghiệm cá nhân của chúng ta. Mùa chay là thời gian làm mới lại kinh nghiệm cá nhân về đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy thực hiện cuộc gặp gỡ diện đối diện với Chúa Giêsu, chúng ta hãy trải lòng ra với Người để Người chất vấn, đụng chạm, biến đổi chúng ta. Khi chúng ta quay về với Người như mạch nước hằng sống, thì những cơn khát sâu xa của ta mới được thoả mãn, tâm hồn ta mới được bình an.

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

Suy Niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay- Năm A

Suy Niệm Chúa Nhật 2 Mùa Chay- Năm A
Mt 17,1-9

Suy niệm
Chúng Ta Sẽ Được Rạng Ngời 
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu muốn biết các môn đệ và những người khác nghĩ gì về bản thân mình, nên khi đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Chúa Giêsu mới hỏi các môn đệ: “người ta nói Con Người là ai?”, nghe xong câu trả lời, Người hỏi tiếp: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”(Mt 16,13-14). Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng cần chúng ta có câu trả lời quyết liệt về bản thân Người. Chúng ta sẽ trả lời giống như những người chưa có đức tin rằng Người là một nhà tiên tri, một nhà cách mạng tôn giáo, một nhà hiền triết, một bậc thầy luân lý, hay với đức tin sâu sắc, chúng ta trả lời cách xác quyết rằng Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Thật vậy, cuộc biến hình của Chúa Giêsu cần thiết để củng cố niềm tin của các môn đệ vào thiên tính của Người như thế nào, thì cũng thật sự  cần thiết cho mỗi người Kitô hữu hôm nay như vậy. Việc suy niệm biến cố biến hình hôm nay sẽ giúp chúng ta kiểm điểm lại đức tin xem chúng ta đã thật sự tin vào thần tính của Người chưa và biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

Giêsu là Thiên Chúa
Bài Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh thánh Phêrô, đại diện cho các tông đồ, đã tuyên xưng thầy mình, Chúa Giêsu, là Đấng  Mêsia mà Israel trong đợi. “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đây là khoảnh khắc cho thấy sự tiến triển trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Ở một mức độ nào đó, thánh Phêrô đã nhận ra thần tính của Chúa Giêsu. Câu trả lời vang lên một điểm tới và như hoa quả của hoạt động của Chúa Giêsu. Người cũng cho các môn đệ hiểu rõ căn tính của một Mêsia đích thực là gì, và con đường Người sẽ đi qua. Người sẽ bị các nhà lãnh đạo loại trừ, bị bắt, bị nhục hình, bị tố cáo và ngay cả bị hành hình. Và Chúa Giêsu mời gọi những ai muốn là môn đệ của Người thì phải chuẩn bị bước trên cùng một con đường của Người, nhưng đó là con đường dẫn đến vinh quang, sự sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu muốn đưa các môn đệ đi đến chỗ hiểu biết rõ ràng và một lời tuyên xưng không mập mờ. Tất cả sự hiểu biết này tùy thuộc Người là ai. Vì thế, Người đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên ngọn núi cao, rồi “Người biến hình trước các ông”. Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Người có vinh quang Thiên Chúa và cuộc khải hoàn Phục sinh được giới thiệu trước. Thật vậy, cuộc biến hình là sự kết hiệp Thiên Chúa với nhân tính trong một con người, Đức Giêsu Kitô, được tỏ ra trong một cách thế đặc biệt. Ánh sáng, màu sắc, sự biến hóa nơi Chúa Giêsu cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là Con Người mặc lấy uy quyền  và vinh quang. Lúc này, tấm màn như được tháo gỡ và các môn đệ nhận thấy một thoáng hiện của thần tính chiếu sáng qua nhân tính. Đó thật sự là cuộc biến hình cần thiết để các môn đệ nhận thấy thần tính của Người: Con Thiên Chúa, đồng thời nhận ra sứ mạng thiên sai của Người: làm cho con người được biến đổi trong vinh quang Thiên Chúa.
Tham dự vào thiên tính mỗi ngày
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với người Kitô hữu hôm nay? Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là biểu lộ tình yêu và ơn sủng của Người. Chúng ta có thể bị choáng ngợp bởi sự biến đổi hình dạng này, nhưng sự mặc khải đó của Thiên Chúa chứng thực cho chúng ta rằng Giêsu chính là Chúa, và đức tin của chúng ta vào Người không phải là sự hoang tưởng. Vì thế, chúng ta không nên sống trong sợ hãi, nhưng hãy sống và hành động trong Người nhờ đức tin. Qua cuộc biến hình, Chúa Giêsu muốn chúng ta sống niềm hy vọng vinh quang ở phía trước, dù chúng ta đang sống dưới mặt đất này. Chúng ta sẽ được biến đổi, sẽ được rạng ngời như chính Chúa Giêsu biến hình, khi sự cứu độ được hoàn tất trong sự Phục Sinh của Thân Xác. Chúng ta sẽ sống trong một trời mới đất mới, trong một vũ trụ được biến đổi. Thực tại cánh chung này sẽ tác động đến cách sống của chúng ta ngay bây giờ.
Đời sống Kitô hữu có ý nghĩa khi mỗi người tham dự thực sự vào thiên tính của Chúa Giêsu  mỗi ngày. Chúng ta phải được biến đổi trong Chúa Kitô, ngay bây giờ, bằng cách sống như Người đã sống, hành động như người đã hành động. Việc biến hình này chỉ hoàn tất khi toàn thể con người, gồm cả thân xác, hoàn toàn được cứu độ và biến đổi. Những người theo Chúa Giêsu, những người được biến hình, bạn và tôi, bây giờ đang bước đi trên con đường của Người và đang dần được biến đổi giống Người.

Tóm lại, biên cố biến hình giúp chúng ta giải thích ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống con người. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là một thoáng hiện của điểm đến ở cuối cuộc hành trình mùa chay, đó là vinh quang của Chúa Phục sinh. Nó nhắc chúng ta nhớ rằng mùa chay thống hối sẽ cho chúng ta con đường đi đến niềm vui của sự Phục sinh, niềm vui của sự “biến hình”. 

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

Suy Niệm Chúa Nhật 1 Mùa Chay - Năm A

Suy Niệm Chúa Nhật 1 Mùa Chay - Năm A
Mt 4,1-11

Suy niệm

Tin mừng của thánh Mátthêu hôm nay thuật lại rằng Chúa Giêsu, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, vào hoang địa để chịu cám dỗ như một con người. Trình thuật hấp dẫn lạ thường, thú vị và khá thực tế cho chúng ta, bởi vì, đây chính xác là hình thức cám dỗ mà chúng ta không ngừng đối diện hằng ngày: bánh ăn, lòng tín thác và quyền lực. Nếu chúng ta khám phá ra bí quyết làm sao mà Chúa Giêsu đương đầu với những cám dỗ đó, thì chúng ta sẽ học được cách đối phó với nó trong đới sống.
Cám dỗ thứ nhất: Bánh ăn
Cơn cám dỗ của ma quỉ thật tinh vi, nó“ không mời chúng ta trực tiếp đến điều xấu, như thế thì quá vụng về. Nó xuất hiện dưới những đòi hỏi thực tiễn:bánh để làm dịu cơn đói. Cơn cám dỗ chỉ bắt đầu khi Người cảm thấy đói. Satan thách thức Chúa Giêsu xem trong hoàn cảnh như thế liệu địa vị Con Thiên Chúa có thể giúp Người thỏa mãn cơn đói không? Trong những cơn đói khát như thế, thì việc đáp ứng lương thực là một đòi hỏi thực tiễn, còn những cái còn lại là tùy phụ, ngay cả những gì thuộc về Thiên Chúa cũng thiếu thực tế. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, dân đã kêu trách Môsê và Aharon, qua đó kêu trách Thiên Chúa, dù họ biết rằng Thiên Chúa đã cứu họ khỏi ách thống trị của người Ai cập và Người không bao giờ bỏ rơi họ. Phẳng chăng Đấng cứu độ thì phải lo lắng để chấm dứt mọi cơn đói của con người, phải làm cho đá trở thành bánh?
Để giải đáp cho vấn đề, Chúa Giêsu khẳng định một chân lý sâu xa rằng con người sống “không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. Chúa Giêsu không dửng dưng trước cái đói, trước nhu cầu vật chất của con người, nhưng Người đặt chúng vào liên hệ đúng đắn và trật tự thích hợp. Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều vì Ngài cảm thương dân chúng đói khát, và hơn thế nữa Người đã ban chính thân mình Người làm của ăn của uống nuôi thảo mãn cơn đói của con người. Thật vậy, một khi con người biết lắng nghe Lời Chúa, mở tâm hồn mình ra với Thiên Chúa và với tha nhân thì họ sẽ nhận được lương thực cách đúng đắn.

Cám dỗ thứ hai: Lòng tín thác
Nếu ông tin rằng Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho ông, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho ông khỏi vấp chân vào đá (x. Mt 4,6), thì ông hãy gieo mình xuống đi! Nếu ông không gieo mình xuống, thì chứng tỏ ông biết Thiên Chúa sẽ không hề giữ gìn ông hoặc Thiên Chúa đã bỏ rơi ông. Đó là những lời lẽ thách thức nhằm lung lạc lòng tín thác của Chúa Giêsu vào Thiên Chúa, và hằng ngày những lời lẽ đó làm cho lòng tín thác của chúng ta dao động. Thật vậy, không ít lần, qua những cảnh huống hằng ngày, những lời thách thức như thế đến từ bên ngoài và ngay cả từ trong nội tâm đã thách đố lòng tín thác của chúng ta vào Thiên Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã thử thách Thiên Chúa: lạy Chúa, nếu ngài làm như vậy cho con thì con sẽ yêu ngài? Hoặc, ngài là Thiên Chúa công minh thì tại sao ngài lại để những chuyện bất công xảy ra như vậy? Nếu có một niềm tin sâu sắc, chắc chắn mỗi người sẽ đấm ngực nhủ rằng “chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa".

Cám dỗ thứ ba: Quyền lực

Satan cám dỗ Chúa Giêsu thực thi sứ mạng “cứu độ thế giới” bằng một cách thức dễ dãi, nhục nhã hơn hành động chết trên thập giá. Nếu Chúa Giêsu chỉ cúi đầu trước Satan thì Người sẽ đón nhận và cai trị thế giới này, mà không phải trải qua những cực hình, đội mão gai, đóng đinh và chết trên thập giá. Nhưng cái giá phải trả của Chúa Giêsu là bán linh hồn cho qủi dữ.

Cũng cách thức như vậy, satan không ngừng cám dỗ làm chúng ta sa vào quyền lực để đạt cho được vinh hoa lợi lộc bất chấp luân thường đạo lý, để cho satan hướng dẫn mình. Quyền lực để trợ giúp cho việc “trị quốc bình thiên hạ” không phải là điều xấu xa. Vì quyền lực bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì Người là chủ tể muôn loài, là Đấng có quyền năng trên trời dưới đất. Tuy niên, chỉ có quyền lực chấp nhận tiêu chuẩn và chịu sự thẩm phán của Thiên Chúa mới trở thành quyền lực hướng đến những điều thiện hảo.  

Tóm lại, một số người nghi ngờ sự thật về một thế giới đầy dãy sự dữ. Thế nhưng, qua những phương tiện truyền thông, chúng ta thấy nhan nhãn những hành động tàn phá môi trường tự nhiên, bạo lực, tình trạng bất công, mù chữ, nghèo đói,.. xảy ra đó đây khắp thế giới. Đó không phải là sự dữ sao? Đó không phải là hậu quả của những lúc con người chiều theo những cám dỗ tin vi của satan sao? Thật vậy, đó là hầu quả của những đòn tấn công mà  satan sử dụng để nhắm vào kế hoạch thần linh của Thiên Chúa: “cho con người được sống và sống dồi dào”. Noi gương Chúa Giêsu, trong mùa chay này, chúng ta hãy chuẩn bị đời sống nội tâm thật sâu sắc, biết mở lòng mình ra cho Thiên Chúa để Người hướng dẫn, hành động, và chỉ bằng cách đó chúng ta mới có thể vượt qua những cơn cám dỗ hằng ngày.